1. Các giải pháp chính sách và điều hành chính sách, quản lý nhà nước trong lĩnh vực tài chính, tiền tệ phải dựa trên nguyên tắc hoạt động của nền kinh tế
thị trường, giảm thiểu và tiến tới xóa bỏ sớm các giải pháp hành chính
phi thị trường.
Nhiều
khó khăn, tồn tại, rủi ro và bất cập của hệ thống ngân hàng và thị trường tài
chính Việt Nam đã được bộc lộ rõ trong năm 2011 có nguyên nhân sâu xa từ những
bất cập trong hoạch định chính sách, quản lý nhà nước và thanh tra giám sát. Những
quy định mang nặng tính hành chính như hạn mức tín dụng, trần lãi suất thực hiện
trong một thời gian dài đã góp phần đem đến những rủi ro, bất cập như:
-
Việc áp dụng trần lãi suất trong bối cảnh lạm phát rất cao, hệ thống ngân hàng
vẫn khó khăn trong việc thu hút vốn tiền gửi với sự cạnh tranh quyết liệt của
các kênh đầu tư khác (trong năm 2011 điển hình là vàng) làm thanh khoản hệ thống
ngân hàng vốn đã khó khăn lại càng khó khăn hơn và có những thời điểm mà một số
ngân hàng đã mất thanh khoản (do có sự dịch chuyển, rút tiền khỏi khu vực ngân
hàng hoặc rút tiền từ ngân hàng nhỏ chuyển sang ngân hàng lớn…);
-
Quy định về hạn mức tín dụng nói chung và hạn mức tín dụng đối với lĩnh vực phi
sản xuất nói riêng cũng là một trong những nguyên nhân của hiện tượng che giấu
và thực hiện các hoạt động có bản chất tín dụng, đảo nợ thông qua các nghiệp vụ
như ủy thác đầu tư, TPDN, phải thu khác… Các quy định này cùng với quy định trần
lãi suất mà không thể giám sát chặt chẽ và đảm bảo sự tuân thủ cũng góp phần
làm rủi ro đạo đức trong hệ thống ngân hàng trở nên phổ biến;
Vì những lý do nêu trên, UBGSTCQG kiến nghị NHNN và các
cơ quan liên quan trong quản lý, điều hành lĩnh vực tài chính tiền tệ cần thực
hiện nhất quán các nguyên tắc sau: (i) Hạn chế tối đa và chỉ đưa ra các giải
pháp hành chính mang tính chất tạm thời trong điều kiện tình hình thực sự cấp
bách và thị trường không có khả năng tự điều chỉnh;
(ii) Thông
tin liên quan đến thị trường tài chính, tiền tệ, lãi suất, tỷ giá và các giải
pháp điều hành của cơ quan quản lý nhà nước cần rõ ràng, minh bạch, nhất quán
và có thể dự báo được.
2. Cần có cơ quan thanh tra giám sát hợp
nhất với vị thế pháp lý và năng lực đầy đủ để thực hiện thanh tra giám sát toàn
diện thị trường tài chính Việt Nam trên cả ba lĩnh vực ngân hàng, chứng khoán,
bảo hiểm và thanh tra giám sát các tập đoàn tài chính.
Các
phân tích trong Báo cáo giám sát thị trường tài chính 2011 cho thấy có nhiều những
rủi ro chéo lớn, tiềm ẩn và đan xen giữa các khu vực của thị trường tài chính,
giữa các định chế trong cùng một tập đoàn tài chính (chủ yếu qua các giao dịch
nội bộ...) mà các cơ quan thanh tra giám sát chuyên ngành không thể nắm bắt hết
được cũng như không có đủ vị thế và chức năng để giám sát, quản lý và xử lý hữu
hiệu được các rủi ro này (nếu có phát hiện được). Trong khi đó UBGSTCQG là đơn
vị được giao thực hiện giám sát chung thị trường tài chính thì vị thế pháp lý
còn hạn chế (chưa được thực hiện thanh tra trực tiếp, không có thầm quyền đưa
ra các chế tài…) nên chưa thể thực hiện giám sát được toàn diện và hiệu quả.
3. Cần khẩn trương xây dựng và hoàn thiện khuôn khổ pháp lý riêng
(Luật, Nghị định) về tổ chức và hoạt động của các tập đoàn tài chính (TĐTC).
Luật các TCTD hiện đã có một số quy định nhằm quản
lý, giám sát hoạt động của các TĐTC. Tuy nhiên, những quy định này chưa đầy đủ,
chỉ xử lý được một vài vấn đề trong tổ chức và hoạt động của các TĐTC, chưa
giúp cơ quan thanh tra giám sát nắm bắt và xử lý toàn diện các rủi ro trong hoạt
động của các TĐTC. Những quy định này cũng chỉ thiên về việc phục vụ mục đích
quản lý, giám sát mà không quan tâm nhiều đến việc tạo điều kiện phát triển cho
các TĐTC.
II. CÁC KHUYẾN NGHỊ CỤ
THỂ
1.1. Khuyến nghị liên
quan đến thanh khoản
Thanh khoản của hệ thống ngân hàng
trong năm 2011 thường trong tình trạng căng thẳng, các ngân hàng luôn phải chạy
đua lãi suất nhằm tăng huy động vốn do những nguyên nhân chủ yếu như kỳ hạn tiền
gửi ngày càng bị rút ngắn, hiện tượng rút tiền trước hạn trở nên phổ biến, nợ xấu
tăng cao… Để xử lý, hạn chế rủi ro thanh khoản, UBGSTCQG có một số kiến nghị:
-
Trong điều kiện lạm phát giảm nhanh, NHNN xem xét sớm gỡ bỏ quy định về trần
lãi suất, thực hiện điều hành chính sách tiền tệ thông qua các công cụ gián tiếp (lãi suất điều hành, dự trữ bắt buộc…) để thị
trường điều tiết hình thành đường cong lãi suất. Có như vậy các ngân hàng mới
có thể tăng khả năng huy động vốn trung và dài hạn.
- NHNN nghiên cứu sửa đổi bổ sung, kiện toàn quy định về
sản phẩm tiền gửi để khắc phục tình trạng tiền gửi các kỳ hạn đều có thể rút ra
bất cứ lúc nào mà vẫn được hưởng lãi. Có thể quy định việc rút vốn trước hạn phải
báo trước một thời gian, có chế tài hạn chế việc rút trước hạn hoặc thậm chí
quy định rút vốn trước hạn thì không được hưởng lãi...
-
Trong hai năm 2010 và 2011, đã xuất hiện hiện tượng một số TCTD đã cho vay quá
mức ngoại tệ so với khả năng huy động của mình và bù đắp chủ yếu bằng nguồn ngoại
tệ vay từ các TCTD nước ngoài với kỳ hạn ngắn (dưới 12 tháng). Theo quy định hiện
nay về quản lý ngoại hối, các khoản vay ngắn hạn này không cần phải đăng ký qua
NHNN, do vậy việc theo dõi và phát hiện sớm để kiểm soát tốt rủi ro thanh khoản
ngoại tệ của các TCTD, ổn định thị trường ngoại hối còn chậm. Do đó, NHNN cần
điều chỉnh quy định về quản lý ngoại hối, theo đó các TCTD phải đăng ký với
NHNN về kế hoạch vay ngoại tệ, nhận tiền gửi ngoại tệ cho cả trường hợp ngắn hạn.
- Nghiên cứu khả năng điều hòa vốn từ
các TCTD thừa vốn sang các TCTD thiếu vốn bằng cách tăng dự trữ bắt buộc đối với
tiền gửi cả nội tệ và ngoại tệ với lãi suất dự trữ bắt buộc hợp lý. Trên cơ sở
đó NHNN có thể sử dụng được nguồn vốn dư thừa của các TCTD lành mạnh để cho vay
tái cấp vốn TCTD có khó khăn về thanh khoản. Đây là biện pháp rất cần thiết
trong điều kiện các ngân hàng lớn không còn tin cậy vào khả năng chi trả của
các ngân hàng nhỏ, nhất thiết phải có vai trò trung gian của NHNN. Việc tăng dự
trữ bắt buộc đối với tiền gửi ngoại tệ ở mức cao còn có tác dụng làm giảm chênh
lệch lãi suất cho vay giữa ngoại tệ và nội tệ, không khuyến khích gửi tiền bằng
ngoại tệ và làm giảm dư nợ cho vay ngoại tệ (qua đó làm giảm áp lực đối với tỷ
giá).
-
Cần có giải pháp huy động nguồn lực vàng trong
dân để bổ sung thanh khoản cho hệ thống ngân hàng và phục vụ phát triển kinh tế. NHNN có thể xem xét khả
năng cho phép TCTD nâng cao tỉ lệ chuyển đổi lượng vàng tồn quỹ thành tiền tại
thời điểm nộp hồ sơ xin chuyển đổi vàng tồn quỹ và mở tài khoản vàng ở nước
ngoài, thực hiện các giao dịch đối ứng, bảo hiểm giá vàng. Điều này sẽ bổ sung
thanh khoản tiền Đồng và ngoại tệ cho các TCTD nắm giữ vàng nói riêng và cho cả
hệ thống TCTD nói chung.
1.2. Khuyến nghị về xử
lý nợ xấu và nâng cao chất lượng tài sản
-
Nhanh chóng và quyết liệt xử lý nợ xấu theo Đề án “Cơ cấu lại hệ thống các TCTD
giai đoạn 2011-2015” đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số
254/QĐ-TTg ngày 1/3/2012 để lành mạnh hóa tình hình tài chính của các TCTD, góp
phần giải quyết dứt điểm vấn đề thanh khoản của hệ thống TCTD và nền kinh tế.
Nợ xấu của hệ thống TCTD hiện nay ngoài các nguyên nhân chủ
quan do quản lý rủi ro yếu kém còn có nguyên nhân do chu kỳ kinh tế đi xuống,
thị trường BĐS đóng băng, thị trường chứng khoán khó khăn. Vì vậy cần chú trọng,
ưu tiên biện pháp xử lý nợ xấu thông qua mô hình Công ty AMC trung ương (cụ thể
là Công ty Mua bán nợ và Tài sản tồn đọng của doanh nghiệp thuộc Bộ Tài chính)
do mô hình
này có các ưu điểm như: (i) Nhanh chóng làm sạch bảng cân đối tài sản của các
TCTD; (ii) Có thời gian để quản lý và tối đa hoá giá trị của các khoản nợ và
tài sản thế chấp, không phải phát mại tài sản một cách ồ ạt; (iii) Là công cụ hỗ
trợ cơ cấu lại các doanh nghiệp con nợ; (iv) Khi bán nợ xấu cho Cty AMC trung
ương, hệ số CAR của TCTD cũng nhanh chóng được cải thiện.
-
Cơ quan chức năng cần sớm có biện pháp cấm TCTD che giấu các hoạt động có tính
chất tín dụng hoặc đảo nợ dưới hình thức các khoản phải thu, TPDN, ủy thác đầu
tư, và tài sản có khác; yêu cầu các TCTD thực hiện hạch toán đúng bản chất của
các khoản phải thu, ủy thác, tài sản có khác…
Ngoài ra, cần tăng cường thanh tra và giám sát tuẩn thủ nhằm nhanh chóng
phát hiện TCTD vi phạm, đồng thời có chế tài phạt nặng TCTD nếu vi phạm.
Rủi
ro tiềm ẩn trong các hoạt động nghiệp vụ mang bản chất tín dụng nêu trên rất lớn,
thậm chí lớn hơn so với các hoạt động tín dụng (do thiếu minh bạch, bỏ qua các
quy trình thẩm định và giám sát, không có tài sản thế chấp…). Vì vậy, cần sửa đổi
Thông tư 13 về các tỷ lệ bảo đảm an toàn và các quy định liên quan theo hướng
quy định hệ số điều chỉnh rủi ro cao hơn đối với các nghiệp vụ này theo đúng bản
chất rủi ro của chúng và áp đặt các giới hạn, hạn chế giống như hoạt động tín dụng
tương ứng (Ví dụ: Ngân hàng mua trái phiếu của công ty con là CTCK thì trái phiếu
này phải chịu hệ số rủi ro 250% giống như việc ngân hàng cho vay CTCK, đồng thời
số tiền mua trái phiếu này phải được tính trong hạn mức tín dụng đối với công
ty con).
-
Kiện toàn các quy định liên quan đến TPDN:
Hiện nay quy định về phát hành TPDN rất lỏng lẻo, tiềm ẩn nhiều rủi ro có bản
chất như tín dụng trong khi TCTD không phải thực hiện đánh giá phân loại nợ và
trích lập dự phòng rủi ro với loại hình tín dụng này. Các điều kiện phát hành thiếu chặt chẽ, rất
đơn giản, chưa có quy định về tỉ lệ đòn bẩy tài chính tối đa mà một doanh nghiệp
phát hành trái phiếu được tiến hành… Như vậy cần nâng cao các yêu cầu về chế độ
báo cáo với các doanh nghiệp phát hành trái phiếu, trước, trong, và sau khi
phát hành trái phiếu. Doanh nghiệp phát hành trái phiếu bắt buộc phải có kiểm
toán cho đến khi trái phiếu đáo hạn.
-
Tăng cường tính minh bạch trong hệ thống báo cáo, hạch toán, kế toán. Cụ thể cần:
(i) Bổ sung chỉnh sửa chế độ kế toán, hạch toán, và báo cáo thuyết minh rõ các
nhóm tài sản và nguồn vốn “khác”, như phải thu khác, phải trả khác, ủy thác,
tài sản có khác…; (ii) Tăng cường trách
nhiệm pháp lý của các công ty kiểm toán đối với các báo cáo kiểm toán phát
hành; quy định chuyển đổi công ty kiểm toán từ loại hình trách nhiệm hữu hạn
sang loại hình trách nhiệm vô hạn…
-
Cần có quy định đảm bảo quản lý tiền gửi TT2 như cho vay trên TT2 và ban hành sớm
quy định phân loại nợ và trích lập dự phòng rủi ro với loại hình này. Quy định
về vay, gửi, và phát hành trái phiếu của tổ chức tín dụng chưa thống nhất và ẩn
chứa nhiều rủi ro. Huy động và vay nợ trên thị trường 2 giữa các TCTD được sử dụng
như một công cụ làm đẹp bảng cân đối tài sản, che dấu một số thực trạng tài
chính (làm đẹp các chỉ số về khả năng thanh toán, thanh khoản khi lập báo cáo).
Đã xuất hiện hiện tượng nợ quá hạn và nợ xấu hoạt động TT2, cho vay và nhận gửi
giữa các TCTD phải có tài sản thế chấp. Tuy nhiên việc phân loại nợ quá hạn và
trích lập dự phòng rủi ro đối với loại hình này chỉ áp dụng với khoản vay TT2
trong khi tiền gửi TT2 và chứng khoán nợ của TCTD về bản chất là tín dụng TT2
thì chưa quy định. Đây là yêu cầu cấp thiết và quan trọng vì tài sản này chiếm
trên 20% tổng tài sản toàn hệ thống tín dụng.
-
Các Cty TC, CTTC hoạt động không đúng với vai trò của mình là cung cấp vốn dài
hạn cho nền kinh tế. tỉ lệ hoạt động trên TT2 rất cao; mô hình công ty TC trong
các tập đoàn, tổng công ty tiềm ẩn rất nhiều rủi ro và hoạt động không hiệu quả.
Cần có đánh giá tổng kết và có chiến lược đúng đắn phát triển loại hình các
TCTD phi ngân hàng này để có một hệ thống tài chính đa dạng, an toàn, ổn định
và phục vụ nhu cầu phát triển của nền kinh tế.
1.3. Nâng cao hiệu quả
quản lý giám sát các TCTD trên cơ sở hệ số tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu (CAR)
Đồng
thời với việc xử lý thanh khoản, xử lý nợ xấu, lành mạnh tài chính của các
TCTD; NHNN tăng cường quản lý, giám sát các tổ chức tín dụng thông qua chỉ số
CAR và sớm hủy bỏ biện pháp áp đặt hạn mức tăng trưởng tín dụng cũng như các
quy định mang tính hành chính trong việc mở rộng mạng lưới, quy mô của TCTD. Với
việc phải đảm bảo CAR, các TCTD sẽ phải tự điều tiết việc tăng trưởng tài sản
(hoặc phải tăng vốn). NHNN cũng thực hiện
quản lý, giám sát việc mở rộng mạng lưới, quy mô, hoạt động của TCTD trên cơ sở
TCTD phải đảm bảo hệ số CAR.
2.1. Nâng cao chất lượng
hàng hóa trên thị trường chứng khoán
- Nâng cao tiêu chuẩn nêm yết trên 2 sở giao dịch;
- Thanh lọc những cổ phiếu yếu kém. Đối với những
cổ phiếu bị giảm giá mạnh xuống dưới mệnh giá trong một thời gian dài phải giải
trình hoạt động kinh doanh. Bắt buộc chuyển sàn hoặc hủy niêm yết đối với các
công ty yếu kém;
-
Nâng chế tài xử phạt đối với các công ty bị phát hiện có hiện tượng làm
giá.
2.2. Về mức đủ vốn: Do mức đủ vốn của các
CTCK bị giảm sút mạnh cơ quan quản lý cần kiên quyết tái cơ cấu, sắp xếp các
công ty này như sau:
- Đối với các công ty thua lỗ từ 30%
đến 50% vốn chủ sở hữu: Đặt vào tình trạng kiểm soát và áp dụng các biện pháp
khắc phục như tăng vốn điều lệ, cơ cấu lại danh mục đầu tư, các khoản vay nợ,
thực hiện hợp nhất, sáp nhập;
- Đối với các công ty thua lỗ trên
50% vốn chủ sở hữu: Đặt vào tình trạng kiểm soát đặc biệt, áp dụng các biện
pháp: soát xét tình hình tài chính, đầu tư, công nợ, rút bớt nghiệp vụ môi giới,
tự doanh, giải thể, phá sản nếu không khắc phục được.
2.3. Về đòn bẩy tài
chính:
Để hạn chế rủi ro từ việc các CTCK lạm dụng đòn bẩy tài chính, cơ quan quản lý
cần quy định giảm tỷ lệ Nợ/Vốn chủ sở hữu đối với CTCK (tối đa khoảng 3 lần) đồng
thời tăng mức xử phạt đối với hành vi vi phạm thay vì chỉ phạt tối đa 100 triệu
đồng như hiện nay.
2.4. Về chất
lượng tài sản:
(i)
Để hạn chế rủi ro, cần đưa ra các biện
pháp kỹ thuật để hạn chế CTCK đầu tư vào các tài sản có rủi ro cao, kém thanh
khoản như cổ phiếu OTC, TPDN. Cần quy định chặt chẽ hơn về cách xác định
giá cổ phiếu OTC, cụ thể là:
- Tăng trách nhiệm pháp lý của các CTCK có báo
giá các cổ phiếu OTC, có chế tài xử phạt đối với các công ty có báo giá sai lệch;
- Trường hợp không xác định được giá trị thị
trường của cổ phiếu thì sử dụng giá trị hợp lý thị trường trên cơ sở so sánh với
giá cổ phiếu của các công ty cùng ngành có quy mô và hoạt động SXKD tương
đương;
- Phải trích lập dự phòng các khoản đầu tư dài
hạn nếu giá trị thị trường của doanh nghiệp thấp hơn giá trị đầu tư của CTCK.
(ii) Cần quy định chặt
chẽ về các khoản phải thu đối với khách hàng.
- CTCK không
được cấp tín dụng không có bảo đảm dưới bất kỳ hình thức nào cho các thành viên
HĐQT, công ty con của thành viên HĐQT, ban giám đốc của chính CTCK;
- Tổng số dư
phải thu đối với 1 khách hàng không vượt quá 25% vốn tự có của CTCK;
- Tổng số dư phải thu đối với 1 khách hàng và
người có liên quan không vượt quá 50% vốn tự có của CTCK;
-
Thay đổi tỷ lệ trích lập dự phòng đối với
khoản phải thu quá hạn:
+ Khoản
phải thu quá hạn từ 6 tháng đến dưới 1 năm: 50%
+ Khoản
phải thu quá hạn trên 1 năm: 100%
2.5. Về đảm bảo khả năng
thanh toán:
Để đảm bảo báo cáo tỷ lệ an toàn vốn khả dụng phản ánh đúng thực trạng khả năng
thanh toán của CTCK, các báo cáo này cần phải được soát xét hàng quý bởi công
ty kiểm toán độc lập.
3.1. Ngừng
cấp phép thành lập mới. Đưa ra các tiêu chí đánh giá xếp hạng các công ty bảo
hiểm, trên cơ sở đó tái cơ cấu lại các công ty bảo hiểm. Làm lành mạnh hóa thị
trường bảo hiểm nói riêng và thị trường tài chính nói chung.
3.2. Nghiên
cứu xây dựng phí sàn chung cho từng nghiệp vụ BH để giảm tình trạng cạnh tranh
không lành mạnh, hạ phí phi kỹ thuật.
3.3. Kiểm
soát việc đầu tư ngoài ngành của doanh nghiệp nhà nước vào lĩnh vực bảo hiểm để
giảm trình trạng không minh bạch và thiếu lành mạnh trong bảo hiểm nội ngành.
3.4. Rà soát lại quy định
tính biên khả năng thanh toán của doanh nghiệp BH: Loại trừ toàn bộ hoặc một phần
các khoản đầu tư trở lại cổ đông (thành viên) tùy theo loại hình đầu tư: tiền gửi,
chứng khoán, BĐS, cho vay, góp vốn thành lập doanh nghiệp,…
3.5. Đưa ra khung pháp lý mới
để giới hạn số tiền đầu tư trở lại cổ đông (thành viên) và người có liên quan
không vượt quá 20% số tiền mà cổ đông (thành viên) đã góp vốn thành lập doanh
nghiệp bảo hiểm.
4.1. Cảnh báo
Sự đình đốn của khu vực doanh nghiệp
khởi nguồn từ ngành BĐS khi thị trường này cạn kiệt thanh khoản và có dấu hiệu
đóng băng kéo dài. Theo đó, khó khăn lan tỏa sang các ngành khác như xây dựng,
vật liệu xây dựng (đặc biệt là thép, xi măng), sản xuất đồ gia dụng, cơ khí chế
tạo,… Bên cạnh đó, khủng hoảng kinh tế khiến thị trường tiêu dùng trong và
ngoài nước suy giảm trầm trọng làm tổn thương các ngành sản xuất trong nước như
nhựa (bao bì), da giày, dệt may, xuất khẩu (hàng tiêu dùng, nông sản, thực phẩm,..).
Từ đó, ngành dịch vụ khác như vận tải, thương mại, …cũng nhanh chóng suy giảm
và đình đốn. Nguyên nhân của tình trạng này xuất phát từ cả nguyên nhân khách
quan và chủ quan như sau:
-
Nguyên nhân khách quan: (i) kinh tế thế giới suy thoái, hồi phục chậm chạp
sau khủng hoảng tác động xấu tới nền kinh tế trong nước, thị trường xuất khẩu của
Việt Nam suy giảm; (ii) bất ổn kinh tế vĩ mô (lạm phát, lãi suất cao, biến động
giá,…) khiến sức mua của thị trường nội địa giảm mạnh.
- Nguyên nhân chủ quan: (i) cấu trúc vốn khu vực
doanh nghiệp phụ thuộc vào vốn vay ngân hàng, tỷ lệ đòn bẩy cao khiến doanh
nghiệp dễ bị tổn thương khi khu vực ngân hàng khủng hoảng; (ii) Áp lực chi phí
đầu vào (nguyên nhiên vật liệu, chi phí tài chính,..) tăng cao (20-30% tại một
số ngành và 21% đối với cả nền kinh tế) trong khi giá bán đầu ra tăng ít hơn,
thậm chí không tăng do sản xuất và tiêu dùng suy giảm cả thị trường trong và
ngoài nước. Áp lực này xuất phát từ nguyên nhân ngành công nghiệp Việt Nam tập
trung ở phân khúc gia công, lắp ráp trong khi thiếu và yếu về công nghiệp phụ
trợ nên đầu vào bị phụ thuộc quá mức; (iii) tiêu dùng nội địa, ngoài nguyên
nhân khách quan như phân tích ở trên, còn suy giảm do tín dụng tiêu dùng không
được khuyến khích tăng trưởng và suy giảm mạnh trong năm 2011; (iv) thực hiện
chính sách tài khóa thắt chặt và chính sách tiền tệ chặt chẽ, đầu tư công cắt
giảm; (iv) cuối cùng, cơ chế chính sách với một số ngành cụ thể còn nhiều bất cập
(ví dụ thuế môi trường đối với ngành nhựa, ..)
Khó
khăn của khu vực doanh nghiệp sản xuất kinh doanh do các nguyên nhân trên, nếu
không sớm được tháo gỡ sẽ tạo ra các rủi ro khó lường về mức độ và quy mô với nền
kinh tế, cụ thể:
Thứ nhất, rủi ro chéo giữa khu vực sản xuất kinh doanh với
khu vực ngân hàng, chứng khoán và bảo hiểm ở mức cảnh báo cao nhất: (i) Ngân
hàng đứng trước nguy cơ suy giảm huy động (khó khăn thanh khoản gia tăng) do
TKTT của các TCKT cạn kiệt (hàng tồn kho cao, chiếm dụng vốn lẫn nhau giữa các
TCKT,..), nợ xấu tăng cao do TCKT mất khả năng thanh toán, khó phục hồi và đạt
mức tăng trưởng tín dụng theo kế hoạch do khu vực doanh nghiệp mất khả năng hấp
thu vốn; (ii) Thị trường chứng khoán đình đốn do chất lượng hàng niêm yết suy
giảm, thanh khoản và tăng trưởng không bền vững; (iii) Thị trưởng bảo hiểm bị
thu hẹp.
Thứ hai, tín dụng đen bùng phát gây tổn hại nghiêm trọng
tới an sinh xã hội. Khó tiếp cận vốn ngân hàng, nhiều cá nhân và tổ chức tìm đến
tín dụng đen để giải quyết khó khăn trước mắt. Tuy nhiên, sự đổ vỡ của nhiều
trường hợp tín dụng đen trong năm 2011 đã tổn hại nghiêm trọng tới an sinh xã hội.
Thứ ba, đình đốn sản xuất kinh doanh tất yếu dẫn tới tỷ
lệ thất nghiệp gia tăng, tạo gánh nặng lên ngân sách và mất ổn định về an sinh
xã hội.
Cuối cùng, mục tiêu ổn định kinh tế vĩ mô và tăng trưởng
GDP khó có thể đạt nếu không sớm có gói giải pháp kịp thời và hiệu quả phục hồi
sản xuất kinh doanh của khu vực doanh nghiệp trong ngắn và dài hạn.
4.2.
Khuyến nghị
- Cần có chính sách hỗ trợ đối với các
doanh nghiệp về ngắn hạn và dài hạn, trong đó tập trung: (a) tăng cường khả
năng tiếp cận vốn tín dụng bằng các chính sách ưu tiên về đối tượng cấp tín dụng
và bảo lãnh tín dụng thông qua các hiệp hội ngành nghề,.. Đặc biệt, cần tạo điều
kiện thuận lợi cho việc tiếp cận vốn ngân hàng của doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Ngoài ra, với các doanh nghiệp đang có nợ xấu tại các TCTD cần phân loại và
đánh giá lại khả năng trả nợ và phục hồi của doanh nghiệp, từ đó có chính sách
khoanh nợ, giãn nợ, hoặc mua lại nợ (thông qua công ty mua bán nợ) với các
doanh nghiệp có tiềm năng phục hồi; (b) từng bước giảm dần lãi suất cho vay để
thúc đẩy đầu tư tư nhân; (c) thực hiện các chính sách ưu đãi về thuế, đặc biệt
đối với các doanh nghiệp thuộc các ngành mũi nhọn, tiềm năng; (d) tháo gỡ khó
khăn về mặt bằng sản xuất trong đó có việc ưu đãi giá thuê đất; (e) đẩy mạnh
các chương trình hỗ trợ nâng cao năng lực cạnh tranh cho các doanh nghiệp; (f)
đẩy mạnh cải cách hành chính.
- Giải tỏa hàng tồn kho cho các doanh
nghiệp đang là vấn đề của cả nền kinh tế để giúp doanh nghiệp vượt qua khó khăn
hiện tại và bảo đảm tăng trưởng bền vững cho kinh tế đất nước. Do đó, chúng tôi
khuyến nghị: (a) tăng cường xúc tiến thương mại, hỗ trợ doanh nghiệp tìm kiếm
thị trường xuất khẩu; (b) tiếp tục tăng cường cuộc vận động “người Việt ưu tiên
dùng hàng Việt”; (c) tạo môi trường thúc đẩy liên kết kinh doanh giữa các doanh
nghiệp, giữa các hiệp hội ngành nghề, tăng cường giao lưu giữa các doanh nghiệp
và thông tin về sản phẩm, hàng hóa của doanh nghiệp. Nhưng giải pháp cấp bách
và quan trọng hơn, cần có sự phối hợp đồng bộ giữa chính sách tài khóa - tiền tệ
và các chính sách vĩ mô khác để thị trường BĐS phục hồi và phát triển lành mạnh
bởi tăng trưởng kinh tế nói chung và tăng trưởng công nghiệp nói riêng phụ thuộc
nhiều vào sự phục hồi của ngành xây dựng.
-
Chiếm dụng vốn và nợ nần dây dưa giữa các doanh nghiệp ngày càng trầm trọng. Do
vậy, chúng tôi khuyến nghị cần phải tăng cường quản lý các khoản phải thu dựa
trên phân tích các chỉ số đo lường hiệu quả hoạt động các khoản phải thu như
vòng quay các khoản phải thu, tỷ trọng khoản phải thu trên doanh thu,.. Ngoài ra, doanh
nghiệp cần tích cực thực hiện các chính sách khuyến khích khách hàng thanh toán
sớm hoặc hợp tác với khách hàng trong việc giải quyết các khoản phải thu, làm
lành mạnh tình hình tài chính của doanh nghiệp và của cả hệ thống.
-
Đẩy mạnh xã hội hóa công trình đầu tư công nhằm thu hút nguồn vốn nhàn rỗi
trong dân, tạo công ăn việc làm cho dân cư và doanh nghiệp.
5.1.
Cảnh báo
- Thị trường hiện đang chứa đựng nhiều
mâu thuẫn gay gắt cần phải xử lý ngay, thể hiện ở các khía cạnh sau: (a) Thị
trường phát triển không đồng đều giữa các địa bàn và giữa các loại hình sản phẩm
BĐS; (b) Việc thực hiện thắt chặt tổng cầu thông qua thắt chặt nguồn tín dụng
nhưng lại không có các kênh hấp thụ tài chính thay thế; (c) giá giảm mạnh song
thị trường vẫn gần như “tê liệt”; (d) đóng băng kéo dài trên thị trường có thể
khiến nợ BĐS trở thành nợ xấu, tiềm ẩn rủi ro lớn cho khu vực ngân hàng. - Thị trường BĐS phụ thuộc nặng nề
vào tín dụng ngân hàng. Thị trường BĐS đang ở cấp độ phát triển thấp, phụ thuộc
nhiều vào nguồn tín dụng từ hệ thống ngân hàng. Tuy nhiên, các TCTD chủ yếu
cung cấp nguồn vốn ngắn hạn trong khi thị trường BĐS cần vốn trung và dài hạn.
Trong khi đó, các chính sách thu hút các nguồn vốn trong và ngoài nước cho phát
triển thị trường BĐS chưa đồng bộ, hiệu quả. Khó khăn về vốn là nguyên nhân chủ
yếu khiến thị trường BĐS gần như tê liệt.
- Sự đóng băng của thị trường BĐS đã tác động lên các khu vực
của thị trường tài chính. Rủi ro nợ xấu BĐS tăng mạnh và đáng lo ngại, trong đó
vay nội bộ là rủi ro lớn nhất mà thị trường BĐS đưa lại cho khu vực ngân hàng.
Việc không kiểm soát được dòng tín dụng thực chảy vào khu vực này kéo theo rủi
ro nợ xấu không thể dự báo có thể làm khu vực ngân hàng khủng hoảng. Đồng thời,
sự tê liệt của thị trường BĐS cũng làm cạn kiệt tính thanh khoản của thị trường
chứng khoán và các doanh nghiệp BĐS gặp khó khăn lớn trong huy động vốn thông
qua phát hành cổ phiếu và trái phiếu tăng vốn.
5.2. Khuyến nghị
(i) Tăng cường quản lý rủi ro và kiểm soát hiệu
quả dòng tín dụng vào BĐS để chống đầu cơ, nhưng cũng tránh gây sốc làm mất
tính thanh khoản của thị trường. Cần phải xem xét linh hoạt để phân định những
tiểu ngành của BĐS thuộc phi sản xuất hay không nhằm tránh việc hạn chế nguồn vốn
tín dụng bất hợp lý. Đối với loại hình BĐS tạo giá trị gia tăng thực cho nền
kinh tế cần phải được đầu tư vốn cao hơn. Trong bối cảnh cung lớn hơn cầu, xem
xét điều chỉnh hợp lý cơ cấu tín dụng BĐS như giảm tỷ trọng tín dụng tạo cung
BĐS, tăng tín dụng cho cầu BĐS.
(ii) Hoàn thiện cơ chế, chính sách nhằm khai
thác và huy động tối đa các nguồn lực tài chính trong và ngoài nước cho phát triển nhà ở nói riêng và thị trường BĐS nói
chung. Cần hình
thành các hình thức tín dụng phát triển nhà ở hoặc quỹ đầu tư tín thác BĐS để tạo
thêm nguồn cung cấp vốn cho thị trường. Đồng thời xây dựng các chính sách nhằm
thu hút các nguồn lực xã hội để khai thông các nguồn vốn trong dân vào thị trường
BĐS, tạo nên nguồn tài chính dài hạn thay thế nguồn vốn tín dụng ngắn hạn của
NH.
(iii)
Cần tăng cường quản lý và phát triển thị trường BĐS để vừa kiểm soát được sự
phát triển của thị trường theo quy hoạch, vừa có thể tăng lượng cầu, cụ thể là
tiền nhằm tăng thanh khoản cho thị trường. Việc phục hồi thị trường BĐS có vai
trò quan trọng làm giảm nợ xấu, tăng thanh khoản cho hệ thống ngân hàng và do
đó phục hồi ngành công nghiệp xây dựng, và là nền tảng để tái cấu trúc ngân
hàng và doanh nghiệp nhà nước.
PHỤ LỤC 01
ĐIỀU CHỈNH TỔNG DƯ NỢ, DƯ NỢ BẤT ĐỘNG SẢN VÀ NỢ XẤU CÁC TCTD
Qua số liệu báo cáo từ TCTD, trong khoảng thời gian từ giữa
năm 2010 đến hết năm 2011 (cùng với thời gian chính sách tiền tệ thắt chặt,
tăng trưởng tín dụng bị khống chế), hầu hết các TCTD đều tăng mạnh các khoản mục
tài sản khác mang bản chất tín dụng (TPDN, ủy thác đầu tư, tài sản phải thu
khác từ bên ngoài…). Do đó, dư nợ tín dụng
cần được điều chỉnh tiệm cận với thực tiễn. Tương tự, dư nợ BĐS và nợ xấu cũng
cần được điều chỉnh để có bức tranh sát với thực tế. Cơ sở tiến hành điều chỉnh
căn cứ vào kết quả các đợt khảo sát của Ủy ban, trao đổi với các công ty kiểm
toán, phỏng vấn lãnh đạo doanh nghiệp và ngân hàng, thông tin thị trường, và
các nguồn thông tin khác như Fitchratings[1],
Moody’s…
Thứ nhất, dư nợ điều chỉnh bao gồm dư nợ
báo cáo bổ sung thêm một phần số dư TPDN, ủy thác đầu tư, các khoản phải thu
khác bên ngoài và tài sản có khác có tính chất tín dụng sau khi loại trừ tỉ trọng
thường xuyên của nhóm tài sản có này. Ngoài ra, khảo sát của Ủy ban cho thấy
khoảng 52.172 tỷ đồng nguồn vốn từ ngân hàng sang CTCK và khoản này được loại
trừ khỏi tổng dư nợ điều chỉnh do bản chất là cho vay CTCK thay vì cho vay nền
kinh tế thực (TCKT và dân cư). Dư nợ điều chỉnh tăng 12,45% so với dư nợ báo
cáo, hay tăng từ 2.484.780 tỷ đồng lên 2.794.247 tỷ đồng.
Dư nợ BĐS cũng được điều chỉnh, theo đó một phần số dư các
khoản TPDN, ủy thác đầu tư, các khoản phải thu khác bên ngoài, các tài sản có
khác được tính bổ sung vào dư nợ BĐS. Sau điều chỉnh, dư nợ BĐS đạt 348.079 tỷ
đồng, gấp khoảng 1,8 lần dự nợ BĐS báo cáo.
Thứ hai, nợ xấu toàn ngành được điều chỉnh theo phương pháp
chi tiết:
Trước tiên, nợ xấu BĐS được đánh giá lại đối với từng tổ chức
tín dụng trên cơ sở TCTD đó có cho vay tập trung phát triển dự án BĐS hoặc cho
vay kinh doanh đầu cơ BĐS, có góp vốn vào các công ty liên doanh liên kết hoặc
cổ đông hoạt động trong lĩnh vực BĐS, hay tập trung cho vay bán lẻ BĐS. Nợ xấu
BĐS sau điều chỉnh lên tới 56.770 tỷ đồng, gấp 8,39 lần so với nợ xấu BĐS báo
cáo.
Tiếp đến, nợ xấu phi BĐS được điều chỉnh căn cứ vào năng lực
quản trị rủi ro và công tác phân loại nợ và trích lập dự phòng rủi ro theo điều
7 hay điều 6 Quyết định 493/2005/QĐ-NHNN. Sau đó, bổ sung thêm nợ xấu đánh giá
từ TPDN, ủy thác đầu tư, khoản phải thu khác bên ngoài, và từ các tài sản có
khác của TCTD. Cuối cùng, một phần dư nợ nhóm 2 (các khoản nợ quá hạn từ 10 đến
90 ngày và các khoản nợ điều chỉnh kỳ hạn trả nợ lần đầu mà ngân hàng đánh giá
có khả năng thu hồi) được điều chỉnh thành nợ xấu. Kết quả nợ xấu điều chỉnh ở
mức 320.822 tỷ đồng, gấp 4,16 lần nợ xấu báo cáo.
PHỤ LỤC 02
ĐẶC ĐIỂM CHỦ YẾU CỦA CÁC NHTM THEO NHÓM
Về phân
loại, các NHTM được phân làm 5 nhóm từ 1 đến 5, theo thứ tự sức khỏe nội tại và
mức tín nhiệm giảm dần.
-
Nhóm 1
gồm các NH có sức mạnh nội tại rất tốt, bảng cân đối tài sản lành mạnh, lợi nhuận
tốt, có khả năng tiếp cận dễ dàng với thị trường tiền tệ, có thương hiệu mạnh
và ban quản trị kinh nghiệm. Đây là những ngân hàng có chất lượng tài sản tốt,
tỷ lệ nợ xấu đánh giá lại ở mức tương đối thấp; thanh khoản ổn định, không phụ
thuộc thị trường tiền tệ; các chỉ tiêu về hiệu quả hoạt động vượt tỷ lệ bình
quân toàn ngành; quy mô vốn và tổng tài sản lớn, chiếm thị phần tương đối lớn
trên thị trường, có uy tín và thương hiệu mạnh, mạng lưới rộng; đã xây dựng hệ
thống xếp hạng tín dụng nội bộ, phát huy hiệu quả tốt; hệ thống công nghệ đáp ứng
tốt nhu cầu phát triển.
-
Nhóm 2 gồm các NH có sức mạnh
nội tại tốt, tuy kém hơn nhóm 1, bảng cân đối tài sản khá lành mạnh, lợi nhuận
tốt, có khả năng tiếp cận dễ dàng với thị trường tiền tệ, có thương hiệu mạnh
và ban quản trị kinh nghiệm. Đây là những ngân hàng có chất lượng tài sản khá,
tỷ lệ nợ xấu điều chỉnh tương đương với bình quân toàn ngành, thanh khoản ở mức
tương đối ổn định, không phụ thuộc hoặc ít phụ thuộc vào vốn từ TT2; hiệu quả
sinh lời khá; quy mô tài sản ở mức trung bình, khả năng quản trị rủi ro đang dần
được nâng cấp.
-
Nhóm 3 gồm các NH có sức mạnh nội tại tương đối tốt, tuy
nhiên hoạt động đang phải đối mặt với một hoặc một số khó khăn liên quan đến sự
lành mạnh của bảng cân đối tài sản, khả năng sinh lời, thanh khoản, quản trị
doanh nghiệp và năng lực ban quản trị điều hạnh, khả năng tiếp cận thị trường
tiền tệ, và sức mạnh thương hiệu. Đây là những ngân hàng có chất lượng tài sản
trung bình, nợ xấu bằng hoặc cao hơn bình quân toàn ngành; có những thời điểm mất
thanh khoản tạm thời nhưng đã được hồi phục, có phụ thuộc vào nguồn vốn TT2; hiệu
quả sinh lời thấp hơn bình quân toàn ngành; các ngân hàng quy mô nhỏ, hệ thống
quản trị rủi ro chưa phát huy được tác dụng.
-
Nhóm 4 gồm
các NH hàng yếu, đang phải đối mặt với các khó khăn về các mặt chất lượng tài sản,
thanh khoản, khả năng sinh lời, năng lực quản trị điều hành, và thương hiệu nhỏ.
Đây là những ngân hàng có chất lượng tài sản kém, tốc độ tăng trưởng tài sản chậm,
tỷ lệ nợ xấu cao; đa số ngân hàng trong nhóm này cho vay nhiều vào lĩnh vực
BĐS, có các công ty “sân sau” thuộc lĩnh vực BĐS; mất thanh khoản kéo dài, phụ
thuộc nhiều vào vốn từ TT2; hiệu quả sinh lời thấp; quy mô nhỏ, thường hiệu ít
được biết đến trên thị trường, khả năng quản trị rủi ro yếu.
-
Nhóm 5 gồm các NH yếu kém đòi
hỏi phải có sự hỗ trợ hoặc can thiệp từ bên ngoài để vượt qua khó khăn. Đây là các ngân hàng có chất lượng tài sản kém, tổng
tài sản giảm hoặc tăng trưởng chậm, tỷ lệ nợ xấu cao; hầu hết trong nhóm này là
có các công ty con, cty “sân sau” hoạt động kinh doanh BĐS, đầu tư cho vay nhiều
vào các dự án BĐS; mất thanh khoản trong thời gian dài, khó có khả năng hồi phục,
phụ thuộc nhiểu vào vốn từ TT2; hiệu quả sinh lời kém hoặc thua lỗ; các ngân
hàng quy mô nhỏ, không có thương hiệu trên thị trường, khả năng quản trị rủi ro
kém.
Các NH
cũng được đánh giá thêm về triển vọng ngắn hạn (từ 6 tháng đến 1 năm). Triển vọng
ngắn hạn bao gồm 3 loại, tích cực, ổn định, và tiêu cực. Các NH với triển vọng
tích cực sẽ cải thiện hoạt động so với thực trạng theo phân tích đánh giá lại
do nỗ lực nội tại của NH, bảng tổng kết tài sản được đánh giá sẽ phản ứng tích
cực với môi trường và chính sách kinh tế vĩ mô. Các NH với triển vọng ổn định sẽ
giữ trạng thái hoạt động tương đồng với thực trạng theo phân tích đánh giá lại.
Các NH với triển vọng tiêu cực sẽ có xu hướng hoạt động kém hơn so với thực trạng
theo phân tích đánh giá lại do nỗ lực nội tại của NH còn hạn chế, bảng tổng kết
tài sản được đánh giá sẽ phản ứng tiêu cực với môi trường và chính sách kinh tế
vĩ mô.
PHỤ LỤC 03
KẾT QUẢ PHÂN NHÓM NHTM VÀ TRIỂN VỌNG
Tên TCTD
|
Xếp nhóm TCTD
|
Outlook
|
|
1
|
Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam
|
1
|
Tích cực
|
2
|
Ngân hàng TMCP Quân Đội
|
1
|
Tích cực
|
3
|
Ngân hàng TMCP Á Châu
|
1
|
Ổn định
|
4
|
Ngân hàng Công thương Việt Nam
|
1
|
Tiêu cực
|
5
|
Ngân hàng TMCP Sài Gòn thương tín
|
1
|
Ổn định
|
6
|
Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam
|
1
|
Ổn định
|
7
|
Ngân
hàng TMCP Quốc tế
|
2
|
Ổn định
|
8
|
Ngân hàng TMCP Xuất nhập khẩu
|
2
|
Ổn định
|
9
|
Ngân
hàng TMCP Kỹ Thương
|
2
|
Ổn định
|
10
|
Ngân
hàng TMCP Đông Á
|
2
|
Tiêu cực
|
11
|
Ngân
hàng NNo&PTNTVN
|
2
|
Tiêu cực
|
12
|
Ngân
hàng liên doanh INDOVINA
|
2
|
Ổn định
|
13
|
Ngân
hàng TMCP Bảo Việt
|
2
|
Ổn định
|
14
|
Ngân
hàng liên doanh VID PUBLIC
|
3
|
Tích cực
|
15
|
Ngân
hàng TMCP Sài Gòn công thương
|
3
|
Tích cực
|
16
|
Ngân
hàng TMCP Xăng dầu Petrolimex
|
3
|
Ổn định
|
17
|
Ngân hàng TMCP Liên Việt
|
3
|
Tiêu cực
|
18
|
Ngân
hàng TMCP Bản Việt
|
3
|
Tích cực
|
19
|
Ngân hàng TMCP Kiên Long
|
3
|
Ổn định
|
20
|
Ngân
hàng Phát triển nhà Đồng bằng sông Cửu Long
|
3
|
Tiêu cực
|
21
|
Ngân hàng TMCP Đông Nam Á
|
3
|
Tiêu cực
|
22
|
Ngân
hàng TMCP Sài Gòn-Hà Nội
|
3
|
Tiêu cực
|
23
|
Ngân hàng TMCP An Bình
|
3
|
Ổn định
|
24
|
Ngân hàng TMCP Nam Á
|
3
|
Ổn định
|
25
|
Ngân hàng TMCP Đại Dương
|
3
|
Tiêu cực
|
26
|
Ngân hàng TMCP Đại Á
|
3
|
Ổn định
|
27
|
Ngân hàng TMCP Việt Nam thịnh vượng
|
3
|
Ổn định
|
28
|
Ngân hàng TMCP Mekkong
|
4
|
Tiêu cực
|
29
|
Ngân hàng TMCP Đại Tín
|
4
|
Ổn định
|
30
|
Ngân hàng TMCP Bắc Á
|
4
|
Ổn định
|
31
|
Ngân
hàng TMCP Phương Tây
|
4
|
Tiêu cực
|
32
|
Ngân hàng TMCP Việt Nam Thương tín
|
4
|
Ổn định
|
33
|
Ngân hàng TMCP Phương Đông
|
4
|
Ổn định
|
34
|
Ngân hàng TMCP Phát triển Nhà TPHCM
|
4
|
Tiêu cực
|
35
|
Ngân hàng TMCP Nam Việt
|
4
|
Ổn định
|
36
|
Ngân hàng TMCP Hàng hải
|
4
|
Tiêu cực
|
37
|
Ngân hàng TMCP Việt Á
|
4
|
Ổn định
|
38
|
Ngân hàng TMCP Tiên Phong
|
4
|
Ổn định
|
39
|
Ngân hàng liên doanh VIỆT - NGA
|
5
|
Ổn định
|
40
|
Ngân hàng liên doanh VIỆT THÁI
|
5
|
Tiêu cực
|
41
|
Ngân hàng TMCP Đệ Nhất
|
5
|
Ổn định
|
42
|
Ngân hàng TMCP Nhà Hà Nội
|
5
|
Tiêu cực
|
43
|
Ngân hàng TMCP Phương Nam
|
5
|
Tiêu cực
|
44
|
Tổng công ty tài chính cổ phần Dầu khí
|
5
|
Tiêu cực
|
45
|
Ngân hàng TMCP Việt Nam tín nghĩa
|
5
|
Ổn định
|
46
|
Ngân hàng TMCP Sài Gòn
|
5
|
Ổn định
|
47
|
Ngân hàng TMCP Dầu khí Toàn Cầu
|
5
|
Ổn định
|
PHỤ LỤC 04
PHÂN NHÓM CÁC CÔNG TY CHỨNG
KHOÁN
Tên CTCK
|
Tỷ lệ Lãi (lỗ) lũy kế đánh giá lại/ Vốn CSH
|
Tỷ lệ an toàn tài chính
|
Nhóm 1
|
||
CTCP CK Thành phố Hồ
Chí Minh
|
21,66%
|
1035%
|
CTCP CK Sài Gòn
|
20,52%
|
345%
|
CTCP CK FPT
|
16,20%
|
1825%
|
CTCP CK Xuân Thành
|
14,78%
|
476%
|
CT TNHH Tư vấn đầu tư
CK TC Capital Việt Nam
|
12,41%
|
518%
|
CTCP CK Morgan Stanley
Hướng Việt
|
11,09%
|
462%
|
CTCP CK Hòa Bình
|
8,68%
|
287%
|
CTCP CK Bảo Minh
|
7,88%
|
392%
|
CT TNHH CK NH TMCP
Ngoại thương Việt Nam
|
7,02%
|
309%
|
CTCP CK Kim Eng Việt
Nam
|
6,95%
|
414%
|
CTCP CK Việt Nam
|
6,90%
|
532%
|
CT TNHH CK Kỹ Thương
|
6,32%
|
199%
|
CTCP CK Việt
|
5,58%
|
550%
|
CTCP CK NH Công thương
Việt Nam
|
5,52%
|
420%
|
CTCP CK Quốc tế Hoàng
Gia
|
4,95%
|
267%
|
CTCP CK Nhật Bản
|
4,33%
|
576%
|
CTCP CK Saigonbank
Berjaya
|
3,82%
|
469%
|
CTCP CK NH No&PTNT
Việt Nam
|
2,86%
|
207%
|
CTCP CK Golden Bridge
Việt Nam
|
2,62%
|
192%
|
CTCP CK Phương Nam
|
2,29%
|
310%
|
CTCP CK Việt Thành
|
1,02%
|
281%
|
CT TNHH CK NH TMCP
Việt Nam Thịnh Vượng
|
-0,46%
|
270%
|
CTCP CK Đại Tây Dương
|
-2,05%
|
353%
|
CTCP CK Thiên Việt
|
-3,03%
|
351%
|
CTCP CK Đầu tư Việt
Nam
|
-3,78%
|
280%
|
CTCP CK Kim Long
|
-5,51%
|
1424%
|
CTCP CK Woori CBV
|
-6,44%
|
329%
|
CTCP CK Đệ Nhất
|
-7,18%
|
220%
|
CTCP CK Vndirect
|
-8,47%
|
855%
|
CTCP CK Mirae Asset
|
-8,55%
|
448%
|
CTCP CK Phố Wall
|
-8,75%
|
387%
|
CTCP CK Nhất Việt
|
-8,87%
|
294%
|
CT TNHH Một thành viên
CK NH Đông Á
|
-9,37%
|
243%
|
CT TNHH CK NH TMCP Nhà
Hà Nội
|
-9,56%
|
428%
|
CTCP CK Việt Tín
|
-12,25%
|
189%
|
CTCP CK An Thành
|
-12,88%
|
272%
|
CTCP CK Alpha
|
-14,36%
|
356%
|
CT TNHH CK ACB
|
-15,69%
|
152%
|
CTCP CK Toàn Cầu
|
-16,41%
|
182%
|
CTCP CK Thành Công
|
-16,84%
|
455%
|
CTCP CK Phú Gia
|
-21,47%
|
188%
|
CTCP CK An Bình
|
-21,78%
|
207%
|
CTCP CK Kenanga Việt
Nam
|
-22,50%
|
261%
|
CTCP CK Trí Việt
|
-23,69%
|
224%
|
CTCP CK Công nghiệp
Việt Nam
|
-23,79%
|
488%
|
CTCP CK Bản Việt
|
-24,06%
|
213%
|
CTCP CK Bảo Việt
|
-25,70%
|
383%
|
CTCP CK An Phát
|
-27,44%
|
208%
|
Nhóm 2
|
||
CTCP CK Đại Nam
|
-30,41%
|
734%
|
CTCP CK Phú Hưng
|
-30,92%
|
217%
|
CTCP CK Dầu Khí
|
-30,92%
|
215%
|
CTCP CK Phượng Hoàng
|
-31,31%
|
181%
|
CTCP CK Á Âu
|
-31,94%
|
269%
|
CTCP CK SJC
|
-32,86%
|
312%
|
CTCP CK Viễn Đông
|
-33,37%
|
215%
|
CTCP CK Châu Á Thái
Bình Dương
|
-34,42%
|
230%
|
CTCP CK Đà Nẵng
|
-35,58%
|
328%
|
CTCP CK Rồng Việt
|
-36,58%
|
239%
|
CTCP CK Hoàng Gia
|
-36,94%
|
163%
|
CTCP CK Âu Việt
|
-38,41%
|
233%
|
CTCP CK Hùng Vương
|
-39,20%
|
378%
|
CTCP CK Hồng Bàng
|
-41,31%
|
192%
|
CTCP CK Liên Việt
|
-41,82%
|
184%
|
CTCP CK Kis Việt Nam
|
-42,55%
|
245%
|
CT TNHH CK
CIMB-Vinashin
|
-42,91%
|
191%
|
CTCP CK Sài Gòn – Hà
Nội
|
-43,73%
|
213%
|
CTCP CK Chợ Lớn
|
-43,79%
|
224%
|
CT TNHH CK NH Đầu tư
và Phát triển Việt Nam
|
-44,43%
|
177%
|
CTCP CK Mê Kông
|
-45,24%
|
95%
|
CTCP CK Sen Vàng
|
-45,80%
|
170%
|
CTCP CK Châu Á
|
-46,82%
|
181%
|
CTCP CK Đại Việt
|
-47,16%
|
188%
|
CTCP CK Đông Dương
|
-47,62%
|
266%
|
CTCP CK Hải Phòng
|
-48,49%
|
270%
|
CTCP CK Eurocapital
|
-49,16%
|
232%
|
CTCP CK Nam An
|
-49,20%
|
248%
|
CTCP CK Stock Mart
Việt Nam
|
-49,55%
|
260%
|
Nhóm 3
|
||
CTCP CK Thăng Long
|
-50,53%
|
199%
|
CTCP CK Thương mại và
Công nghiệp Việt Nam
|
-53,92%
|
181%
|
CTCP CK Maritime Bank
|
-55,24%
|
164%
|
CTCP CK Thủ Đô
|
-55,33%
|
204%
|
CTCP CK Sao Việt
|
-55,43%
|
203%
|
CTCP CK Quốc tế Việt
Nam
|
-55,72%
|
158%
|
CTCP CK Tràng An
|
-61,40%
|
197%
|
CTCP CK Phương Đông
|
-61,42%
|
187%
|
CTCP CK Đông Nam Á
|
-66,96%
|
254%
|
CTCP CK Quốc Gia
|
-68,32%
|
203%
|
CTCP CK Đại Dương
|
-72,36%
|
242%
|
CTCP CK VIT
|
-75,41%
|
236%
|
CTCP CK Tầm Nhìn
|
-76,33%
|
219%
|
CTCP CK Hà Nội
|
-80,17%
|
36%
|
CTCP CK Hamico
|
-83,35%
|
653%
|
CTCP CK Vina
|
-83,52%
|
102%
|
CTCP CK SME
|
-84,97%
|
N/A
|
CTCP CK Hà Thành
|
-85,65%
|
135%
|
CTCP CK NH Phát triển
Nhà Đồng bằng Sông Cửu Long
|
-87,06%
|
157%
|
CTCP CK Navibank
|
-88,97%
|
1530%
|
CTCP CK NH Sài Gòn
Thương Tín
|
-89,87%
|
186%
|
CTCP CK Việt Quốc
|
-93,17%
|
181%
|
CTCP CK FLC
|
-97,90%
|
193%
|
CTCP CK Trường Sơn
|
-99,19%
|
181%
|
CTCP CK BETA
|
-114,24%
|
184%
|
CTCP CK Tân Việt
|
-144,42%
|
248%
|
CTCP CK Cao su
|
-172,09%
|
40%
|
CTCP CK Sài Gòn
Tourist
|
-481,39%
|
195%
|
[1] Trong báo cáo 2012 Outlook: Asia-Pacific
Banks tháng 1/2012 , Fitchratings nhận định nợ xấu thực tế theo chuẩn kế toán
quốc tế (IFRS) cao hơn từ 3 đến 4 lần so với chuẩn kế toán Việt nam (VAS). Nợ xấu
này “ẩn” chủ yếu ở nợ nhóm 2.
No comments:
Post a Comment