RFA file -Công hàm ông Phạm Văn Đồng gửi Trung Quốc====>>>
và cũng vì vậy, công hàm do ông Phạm Văn Đồng – Thủ tướng Việt
Nam Dân chủ Cộng hòa, ký ngày 14 tháng 9 năm 1958, gửi ông Chu Ân Lai –
Thủ tướng Trung Quốc, thừa nhận chủ quyền của Trung Quốc trên biển Đông,
không có chút giá trị nào về mặt luật pháp quốc tế.
Đây là lần đầu tiên, một trang web thuộc chính quyền Việt Nam nêu
chính kiến theo hướng này. Vì sao? Trân Văn – thông tín viên của Đài
chúng tôi đã phỏng vấn ông Dương Danh Huy – một tiến sĩ đang sống tại
Anh, thành viên sáng lập Qũy Nghiên cứu biển Đông – và cũng là người đã
từng khuyến nghị chính quyền Việt Nam nên làm như thế, để tìm câu trả
lời.
Thể diện chính quyền phải nhường chỗ cho chủ quyền quốc gia
Trân Văn: Thưa ông, trong các cuộc tranh luận
kéo dài suốt nhiều năm qua về chủ quyền trên biển Đông, tuy Trung Quốc
luôn dùng công hàm do ông Phạm Văn Đồng ký hồi 1958 như một trong những
bằng chứng để chứng minh rằng, Việt Nam đã chính thức thừa nhận chủ
quyền của Trung Quốc đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, song
gần như chưa bao giờ chính quyền Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam –
hậu thân của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, nêu quan điểm của họ về công hàm
đó.
Cũng vì vậy, việc trang web của Chương trình Nghiên cứu biển
Đông, thuộc Học Viện Ngoại giao Việt Nam, đăng một bài viết xác nhận sự
tồn tại của công hàm này, cũng như phân tích về giá trị của công hàm đó
rõ ràng là một sự kiện rất đáng chú ý.
Là một người chuyên nghiên cứu, theo dõi và phân tích các sự kiện
liên quan đến tranh chấp chủ quyền ở biển Đông, ông nghĩ thế nào về sự
kiện vừa xảy ra ấy?
Bản đồ Việt Nam trước 1975 chia làm hai tại vĩ tuyến 17 : Cộng hòa
Xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Việt Nam Cộng Hòa. RFA
file================================>>>
Tiến sĩ Dương Danh Huy: Trong tranh chấp Hoàng Sa – Trường Sa (HSTS), Trung Quốc mặc nhiên cho rằng Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam (CHXHCN
VN) là hậu thân của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (VN DCCH) và chỉ của VN
DCCH. Trên phương diện chính trị, có thể nói rằng, khi Việt Nam thống
nhất ngày 2/7/1976 thì ý thức hệ và lãnh đạo của CHXHCN VN chủ yếu là từ
VN DCCH. Nhưng trên phương diện pháp lý, thì CHXHCN VN là hậu thân của
hai quốc gia: Môt quốc gia phía Bắc vĩ tuyến 17 với tên VN DCCH và một
quốc gia phía Nam với tên Cộng Hòa Miền Nam Việt Nam (CH MNVN) mà trước
đó có tên Việt Nam Cộng Hòa (VNCH).
Trên phương diện chính trị, có thể nói rằng, khi Việt Nam thống nhất ngày 2/7/1976 thì ý thức hệ và lãnh đạo của CHXHCN VN chủ yếu là từ VN DCCH. Nhưng trên phương diện pháp lý, thì CHXHCN VN là hậu thân của hai quốc gia: Môt quốc gia phía Bắc vĩ tuyến 17 với tên VN DCCH và một quốc gia phía Nam với tên Cộng Hòa Miền Nam Việt Nam mà trước đó có tên Việt Nam Cộng Hòa.
Tiến sĩ Dương Danh Huy
Đúng là cho tới gần đây truyền thông của Việt Nam tránh nói về vấn đề
công hàm Phạm Văn Đồng (CH PVĐ) và tránh câu hỏi, trước khi Việt Nam
thống nhất vào ngày 2/7/1976 thì phía Bắc và phía Nam vĩ tuyến 17 là mấy
quốc gia (?), từ thời VNCH đến CH MNVN, có phải là một quốc gia khác
biệt với VN DCCH hay không.
Tôi cho rằng việc một trang mạng thuộc chính phủ Việt Nam đăng một
bài phân tích về CH PVĐ với quan điểm trước khi Việt Nam thống nhất thì
phía Bắc và phía Nam vĩ tuyến 17 là hai quốc gia khác biệt, là một bước
đi đúng, theo hướng “công khai, công pháp quốc tế và công luận” mà một
số nhà luật học Việt Nam đã đề cập đến. Tôi hy vọng rằng việc Học viện
Ngoại giao đăng bài đó, cũng như việc tạp chí Tia Sáng đăng một bản
tiếng Việt vào tháng 11 năm ngoái, sẽ góp phần mở rộng thêm không gian
tranh luận, phân tích công khai về CH PVĐ.
Việt Nam Cộng hòa là “lõi” của kế hoạch vô hiệu hóa
Trân Văn: Bài viết bằng tiếng Anh, mới đăng trên
trang web của chương trình Nghiên cứu biển Đông thuộc Học Viện Ngoại
giao Việt Nam, chỉ là bản dịch của một loạt ba bài do bà Nguyễn Thái
Linh viết và đã từng được tạp chí Tia Sáng của Việt Nam, đăng hồi giữa
tháng 11 năm 2011.
Sau sự kiện đó chừng một tuần, hôm 25 tháng 11 năm 2011, lần đầu
tiên, một trong những viên chức cao cấp nhất của chính quyền CHXHCN VN –
ông Nguyễn Tấn Dũng, Thủ tướng Việt Nam, chính thức tuyên bố tại diễn
đàn Quốc hội Việt Nam, rằng chính phủ VNCH, đã từng thay mặt Việt Nam,
duy trì chủ quyền của Việt Nam trên quần đảo Hoàng Sa, rằng năm 1974,
Trung Quốc đã dùng vũ lực cưỡng chiếm toàn bộ quần đảo Hoàng Sa từ tay
chính quyền VNCH,…
Theo dõi tình hình thời sự tại Việt Nam, chúng tôi không nghĩ
rằng, tuyên bố của ông Nguyễn Tấn Dũng nhắm vào mục tiêu hòa hợp, hòa
giải, mà đơn thuần chỉ là chuẩn bị luận cứ, nhằm vô hiệu hóa các bằng
chứng mà Trung Quốc đã, đang cũng như sẽ còn tiếp tục sử dụng để chứng
minh rằng, Việt Nam đã từng chính thức thừa nhận chủ quyền của Trung
Quốc, đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, trong số các bằng
chứng này, có công hàm mà ông Phạm Văn Đồng ký năm 1958.
Đối chiếu tuyên bố của ông Nguyễn Tấn Dũng hồi cuối năm ngoái và
sự kiện trang web của chương trình Nghiên cứu biển Đông, thuộc Học Viện
Ngoại giao Việt Nam, mới vừa minh định về sự hiện hữu của VNCH trong
giai đoạn 1954-1975, với bài viết “Trong cuộc chiến 1954-1975, có một
hay hai quốc gia trên hai miền Bắc, Nam?”, đã được ông công bố hồi giữa
năm ngoái, chúng tôi có cảm giác, những khuyến nghị của ông qua bài viết
ấy, đang được chính quyền Việt Nam hiện nay áp dụng để có thể ứng dụng
hữu hiệu luật pháp quốc tế, vào việc bảo vệ chủ quyền của Việt Nam trên
biển Đông. Bài viết của ông rất cặn kẽ, nhiều chi tiết, trong khi thời
gian cho cuộc trao đổi này lại có giới hạn, ông có thể giải thích thật
ngắn gọn, nhằm giúp thính giả của chúng tôi dễ hình dung rằng, tại sao,
cần phải thừa nhận, trong giai đoạn 1954-1975, Việt Nam từng có hai quốc
gia riêng biệt?
Ông Phạm Văn Đồng và ông Chu Ân Lai (source chouenlai.lafeng.net)====>>>
Tiến sĩ Dương Danh Huy: Trước hết, tôi xin nêu quan
điểm của tôi là trong thời kỳ Việt Nam chia đôi thì “Việt Nam là VN DCCH
và VNCH” chứ không phải “Việt Nam chỉ là VN DCCH”.
Việc miền Bắc và miền Nam là hai quốc gia cho đến ngày 2/7/1976 là rất quan trọng cho việc phản biện Trung Quốc, vì nó có nghĩa CH PVĐ và các hành vi bất lợi khác của VN DCCH sẽ không gây phương hại cho chủ quyền đối với HSTS mà một quốc gia khác, tức là miền Nam, đang duy trì lúc đó.
Tiến sĩ Dương Danh Huy
Đúng như ông nói, có lẽ chính phủ Việt Nam cảm thấy khó có thể làm
ngơ trước việc Trung Quốc đang sử dụng vấn đề CH PVĐ trong việc tuyên
truyền, họ cảm thấy Việt Nam phải phản biện nhiều hơn, và họ có thể cảm
thấy rằng lập luận mạnh mẽ nhất để phản biện là dựa trên các tuyên bố và
hành động của VNCH về HSTS. Nhưng để dựa trên các tuyên bố và hành động
của VNCH về HSTS thì phải dựa trên việc lúc đó miền Bắc và miền Nam là
hai quốc gia.
Trên thực tế, chính phủ Việt Nam đã viện dẫn các tuyên bố và hành
động của VNCH về HSTS từ lâu, thí dụ như trong sách trắng của Việt Nam
về HSTS năm 1981. Nhưng, có lẽ trên phương diện đối nội thì họ ngại,
không dám công nhận thẳng thừng là miền Bắc và miền Nam đã từng là hai
quốc gia, mặc dù đó là quan điểm mà cả ba chính thể: VN DCCH, CH MNVN và
CHXHCN VN đã từng đưa ra với thế giới.
Việc miền Bắc và miền Nam là hai quốc gia cho đến ngày 2/7/1976 là
rất quan trọng cho việc phản biện Trung Quốc, vì nó có nghĩa CH PVĐ và
các hành vi bất lợi khác của VN DCCH sẽ không gây phương hại cho chủ
quyền đối với HSTS mà một quốc gia khác, tức là miền Nam, đang duy trì
lúc đó.
…nếu sự thống nhất đó là VN DCCH và CH MNVN cùng đồng ý thống nhất lại thành một quốc gia thì sẽ có lợi cho Việt Nam, vì sẽ không có vấn đề gì cản trở việc CHXHCN VN, thừa kế danh nghĩa chủ quyền đối với HSTS từ quốc gia phía Nam vĩ tuyến 17, tức là VNCH hay CH MNVN.
Tiến sĩ Dương Danh Huy
Nói cách khác, nếu chính phủ Việt Nam cho rằng luôn luôn chỉ có một
quốc gia, thì CH PVĐ và các hành vi bất lợi khác của VN DCCH sẽ gây
phương hại cho chủ quyền Việt Nam đối với HSTS.
Ngoài ra, vấn đề không chỉ là miền Bắc và miền Nam đã từng là hai
quốc gia, mà còn là cả tính cách pháp lý của sự thống nhất ngày
2/7/1976. Nếu sự thống nhất đó là VN DCCH mở rộng lãnh thổ về phía Nam,
hấp thụ quốc gia phía Nam vĩ tuyến 17 thì sẽ bất lợi cho tranh cãi pháp
lý về HSTS. Ngược lại, nếu sự thống nhất đó là VN DCCH và CH MNVN cùng
đồng ý thống nhất lại thành một quốc gia thì sẽ có lợi cho Việt Nam, vì
sẽ không có vấn đề gì cản trở việc CHXHCN VN, thừa kế danh nghĩa chủ
quyền đối với HSTS từ quốc gia phía Nam vĩ tuyến 17, tức là VNCH hay CH
MNVN.
Điểm cuối cùng ở đây là điểm có thể gây tranh cãi giữa người Việt.
Trên phương diện chính trị, có thể có quan điểm cho rằng CHXHCN VN chính
là VN DCCH đã hấp thụ miền Nam và đổi tên thành CHXHCN VN. Nhưng, trên
phương diện thủ tục pháp lý, theo quan điểm của các quốc gia khác lúc
đó, bao gồm cả Trung Quốc, và của các cơ quan của Liên Hiệp Quốc, thì sự
kiện Việt Nam thống nhất ngày 2/7/1976 là hai quốc gia thống nhất lại
thành một quốc gia mới.
Trân Văn: Xin cám ơn ông.
Thong tin vien RFA
1 comment:
Giờ thì đã rỏ ai là kẻ bán nước nhé!
Lịch sử sẽ rất công tâm,ngày phán xét sẽ đến !
Post a Comment