Phỏng vấn Huỳnh Nhật Hải, Huỳnh Nhật Tấn –Làm cách mạng không phải để dựng nên một nhà nước độc tài
Hai
anh em, ông Huỳnh Nhật Hải sinh năm 1943, ông Huỳnh Nhật Tấn sinh năm
1946, là những người, vào cuối năm 1988, đã cùng nhau tự ra khỏi Đảng
Cộng sản Việt Nam (ĐCSVN) đồng thời từ bỏ luôn những chức vụ đang đảm
nhiệm kèm theo những tiềm năng rất lớn về quyền lực, quyền lợi: Phó Chủ
tịch Uỷ ban Nhân dân Thành phố Đà Lạt kiêm Thành ủy viên (đối với ông
Huỳnh Nhật Hải) và Phó Giám đốc Trường Đảng tỉnh Lâm Đồng kiêm Tỉnh ủy
viên dự khuyết (đối với ông Huỳnh Nhật Tấn). Điều gì đã khiến hai đảng
viên cộng sản đầy tiềm năng của một gia đình có truyền thống cách mạng
từ trước năm 1945 lại có quyết định chia tay cách mạng khi sự nghiệp
“cách mạng giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước”đã thành công hoàn
toàn?
Phạm Hồng Sơn: Hai ông có thể cho biết con đường nào đã đưa các ông đến với ĐCSVN?
Huỳnh Nhật Hải:
Có thể nói hai anh em chúng tôi đã được “nhuộm đỏ” từ bé. Chúng tôi đã
có thiện cảm, tinh thần ủng hộ, và làm những việc có lợi cho những tổ
chức của cách mạng như Việt Minh hay Mặt trận Dân tộc Giải Phóng miền
Nam Việt Nam (Mặt trận) ngay từ khi còn rất nhỏ tuổi. Vì ba má tôi là
một gia đình tư sản ủng hộ Việt Minh tại Đà Lạt từ trước năm 1945. Ba
tôi là hội viên Công hội Đỏ và tham gia cướp chính quyền tại Đà Lạt vào
năm 1945 và sau đó trở thành đảng viên bí mật của Đảng Cộng sản Đông
Dương (tên gọi lúc đó của ĐCSVN). Hai anh trai tôi là những người đi tập
kết ra Bắc sau năm 1954.
Huỳnh Nhật Tấn:
Có thể nói là ngay từ nhỏ, mở mắt ra là chúng tôi đã được nghe, được
thấy, được sống trong tinh thần của cách mạng, tôi cứ tạm gọi là “cách
mạng” đi. Đó là những năm thơ ấu của chúng tôi ở trong “vùng tự do” liên
khu 5, khi gia đình chúng tôi phải tránh sự truy lùng của Pháp từ
khoảng cuối 1945 đến năm 1954, và cả thời gian sau đó khi ba má tôi trở
lại Đà Lạt (sau Hiệp định Genève) để tiếp tục nhiệm vụ ủng hộ bí mật cho
ĐCSVN và Mặt trận dưới hình thức là một gia đình tư sản.
Phạm Hồng Sơn: Hai ông có nhớ đã có ảnh hưởng nào đến từ ngoài gia đình không?
Huỳnh Nhật Tấn:
Có, những trí thức như giáo sư, nhà văn, nhạc sĩ có tên tuổi lúc đó mà
đi với Việt Minh hay Mặt trận cũng gây cho chúng tôi sự lôi cuốn, cảm
hứng âm thầm nhưng rất lớn. Đặc biệt là qua quan sát, tiếp xúc với những
cán bộ hoạt động bí mật đã sống ở nhà tôi thì hai anh em tôi thấy đó là
những con người rất đáng khâm phục, họ vừa có tinh thần kỷ luật, chịu
đựng, hy sinh rất lớn vừa có những lý tưởng rất cao đẹp là quyết giành
lại độc lập cho đất nước và tự do cho dân tộc.
Huỳnh Nhật Hải:
Một yếu tố nữa cũng làm cho chúng tôi ủng hộ Mặt trận là sự xuất hiện
của quân đội Mỹ tại miền Nam. Sự xuất hiện đó làm cho những người như
chúng tôi cảm thấy bị xúc phạm về chủ quyền dân tộc. Chúng tôi cảm thấy
là miền Nam đang bị người Mỹ xâm lăng và cần phải chống lại họ và chính
quyền thân Mỹ tại miền Nam.
Phạm Hồng Sơn: Thời gian từ khi Mặt trận được thành lập (năm 1960) cho tới năm 1975 các ông làm những việc gì để ủng hộ “cách mạng”?
Huỳnh Nhật Hải:
Công việc của cả hai anh em chúng tôi đều cùng có hai giai đoạn khác
nhau, trước và sau khi chúng tôi “nhẩy núi”, tức là phải bỏ gia đình để
vào tận căn cứ trong rừng sâu để hoạt động. Tôi “nhảy núi” vào đúng mồng
3 Tết Mậu Thân 1968 còn em tôi, Huỳnh Nhật Tấn, “nhảy núi” trước đó vài
tháng khi đã bị lộ.
Huỳnh Nhật Tấn:
Trước khi “nhảy núi”, anh em chúng tôi làm công tác liên lạc, vận động
trong giới thanh niên, học sinh, sinh viên tại Đà Lạt để thành lập các
nhóm, tổ chức, đoàn thể hoặc in, tán phát truyền đơn hay khẩu hiệu đấu
tranh cho Mặt trận.
Huỳnh Nhật Hải:
Sau khi “nhảy núi”, hai anh em chúng tôi, mỗi người một nơi, nhưng đều ở
bộ phận công tác phong trào thanh niên học sinh, sinh viên. Anh em
chúng tôi thường phải đi vào những “vùng lõm“ (vùng dân cư mà ban ngày
do chính quyền Việt Nam Cộng hòa kiểm soát còn ban đêm thuộc về lực
lượng của Mặt trận) để bắt liên lạc, tiếp nhận hay vận động ủng hộ về
vật chất, tinh thần cho Mặt trận.
Phạm Hồng Sơn: Những công việc đó chắc phải rất mạo hiểm và hết sức khó khăn?
Huỳnh Nhật Tấn:
Đúng thế, chúng tôi phải rất kiên trì, khôn khéo trong công tác vận
động và không phải lần vận động nào cũng thành công. Cả hai anh em chúng
tôi cũng đã bị phục kích hoặc chạm trán với lực lượng quân đội của Việt
Nam Cộng hòa, nhưng rất may cả hai chỉ bị thương nhẹ trong một, hai
lần.
Phạm Hồng Sơn: Sau 30/04/1975 các ông được giữ ngay chức Phó Chủ tịch UBND Thành phố hoặc Phó Giám đốc Trường Đảng?
Huỳnh Nhật Hải:
Không phải như thế. Sau 30/04/1975 tôi tiếp tục công tác ở Thành đoàn,
sau đó mới chuyển qua công tác chính quyền. Năm 1977 tôi được kết nạp
Đảng. Năm 1979 làm Chủ tịch khu phố I Thành phố Đà Lạt, rồi sau khi đi
học Trường Đảng ở Tây Nguyên trong một năm đến năm 1981 là tôi trở thành
Phó Chủ tịch UBND Thành phố Đà Lạt, là Thành ủy viên.
Huỳnh Nhật Tấn:
Tôi thì được kết nạp Đảng từ năm 1972 sau khi “nhảy núi”. Ngay tháng
10/1975 tôi đã được chọn vào số cán bộ đầu tiên gửi ra Bắc học ở Trường
Tuyên huấn Trung ương ở khu Cầu Giấy, Hà Nội trong 3 năm rồi trở về
giảng dạy môn kinh tế chính trị tại Trường Đảng tỉnh Lâm Đồng. Và sau
lần ra học tiếp ở Hà Nội tại Trường Tuyên Huấn Trung Ương trong 03 năm
nữa, đến năm 1986 tôi được bổ nhiệm vào chức Phó Giám đốc trường Đảng
tỉnh Lâm Đồng, đồng thời được cơ cấu vào cấp Tỉnh ủy, là Tỉnh ủy viên dự
khuyết.
Phạm Hồng Sơn: Một cách ngắn gọn, lý do gì đã khiến hai ông gần như đồng thời quyết định từ bỏ Đảng kiêm các chức vụ đó?
Huỳnh Nhật Tấn:
Tôi còn nhớ trong lá đơn xin ra khỏi Đảng lúc đó tôi có viết một câu:
“Tôi không tin ĐCSVN có thể lãnh đạo đưa đất nước đạt được những điều
tốt đẹp như Đảng thường nói.”
Huỳnh Nhật Hải:
Còn trong lá đơn của tôi viết sau ông em tôi một vài tháng, tôi nhớ đã
viết là: “Tôi không còn động cơ để phấn đấu cho mục tiêu và lý tưởng của
Đảng nữa.” Nhưng thực sự trong thâm tâm thì cũng giống như ông em tôi
đã nói ở trên. Tôi không tin ĐCSVN nữa.
Phạm Hồng Sơn: Quá trình đi đến sự bất tín đó diễn ra như thế nào?
Huỳnh Nhật Hải:
Đó là một quãng thời gian kéo dài khoảng 5-7 năm, thông qua những quan
sát, tìm hiểu, trao đổi, bàn bạc và trằn trọc từ mỗi bản thân và gần như
chỉ giữa hai anh em chúng tôi.
Huỳnh Nhật Tấn:
Có thể nói chúng tôi đi đến sự bất tín vào ĐCSVN là dựa vào những gì
chúng tôi thấy, chúng tôi gặp trên thực tế hơn là từ vấn đề lý luận.
Phạm Hồng Sơn: Những “thực tế” nào quan trọng nhất khiến hai ông nhận thức lại ĐCSVN?
Huỳnh Nhật Tấn:
Đó chính là những chính sách về quản lý xã hội, điều hành kinh tế và
việc tôn trọng các quyền tự do, dân chủ của người dân của ĐCSVN. Về quản
lý xã hội, ĐCSVN đã không quản lý bằng pháp luật mà bằng sự tùy tiện,
áp đặt, gần như hoàn toàn chỉ dựa theo các chỉ thị, ý muốn từ lãnh đạo
Đảng. Ví dụ việc tịch thu nhà cửa, tài sản hay đưa đi “học tập cải tạo”,
thực chất là bỏ tù con người, đều không dựa trên pháp luật hay xét xử
của tòa án. Điều hành kinh tế thì lúc đó chúng tôi thấy những chính sách
rất kỳ cục và phản khoa học, ví dụ như có những chỉ thị là Đà Lạt phải
sản xuất bao nhiêu rau hay các huyện khác phải sản xuất bao nhiều mì[i]
mà không cần biết khả năng và lợi thế về thổ nhưỡng, thói quen canh tác
của người dân hoặc việc giao quyền lãnh đạo kinh tế không dựa vào
chuyên môn, kinh nghiệm mà lại dựa vào thành phần giai cấp và sự gắn bó
với Đảng. Về các quyền tự do dân chủ của người dân, càng ngày chúng tôi
càng thấy thực tế lại tồi tệ và khó khăn hơn rất nhiều so với thời Việt
Nam Cộng hòa. Ví dụ như khi hoạt động trước 1975, chúng tôi đã từng cho
một số viên chức chính quyền đọc cả cương lĩnh của Mặt trận nhưng những
người đó không coi chúng tôi là thù địch, họ coi việc khác biệt quan
điểm là chuyện hết sức bình thường. Nhưng sau năm 1975 mọi thứ không như
thế nữa, tất cả mọi hoạt động, kể cả trong tư tưởng, mà khác với quan
điểm của ĐCSVN thì đều không được chấp nhận. Báo chí tư nhân, biểu tình,
bãi công, bãi thị đã hoàn toàn bị cấm ngặt mặc dù những bất công, nhu
cầu lên tiếng của xã hội hết sức bức bối. Có thể nói điều lớn nhất để
chúng tôi nhận thức lại ĐCSVN là sự độc tài toàn trị dựa trên bạo lực và
không tôn trọng những quyền căn bản của người dân.
Phạm Hồng Sơn: Các ông đã quen biết những nhân vật như ông Hà Sĩ Phu hay ông Mai Thái Lĩnh,…những cư dân tại Đà Lạt lúc đó chưa?
Huỳnh Nhật Hải: Chúng
tôi chưa biết ông Hà Sĩ Phu, còn ông Mai Thái Lĩnh thì chúng tôi đã
biết nhau từ hồi cùng “nhảy núi” nhưng sau 30/04/1975 chúng tôi gần như
chưa trao đổi hay bàn luận gì với nhau cả. Anh em chúng tôi trước khi
quyết định bỏ về đã nói với nhau là “chúng ta đi làm cách mạng không
phải để xây dựng nên một nhà nước chuyên chính độc tài như thế này.”
Phạm Hồng Sơn: Gia đình, những người thân và bạn bè đồng chí của các ông có phản ứng gì trước quyết định đó?
Huỳnh Nhật Hải:
Lúc đó ba má tôi đều đã qua đời nhưng chúng tôi tin rằng nếu còn sống
ba má tôi cũng ủng hộ việc từ giã ĐCSVN của chúng tôi. Hai bà xã của
chúng tôi ủng hộ hoàn toàn quyết định về nhà tự làm ăn của chúng tôi.
Phạm Hồng Sơn: Thế còn hai anh trai, những người đã đi tập kết sau 1954, và những đồng chí thân quen của hai ông?
Huỳnh Nhật Tấn:
Anh trai cả của chúng tôi thì gần như không có ý kiến gì, còn người anh
trai thứ hai thì không đồng ý. Còn những đảng viên đồng sự khác và các
cấp lãnh đạo lúc đó hoàn toàn ngạc nhiên, gần như tất cả mọi người đều
khuyên chúng tôi xem xét lại. Có người lúc đó đã nói với tôi là nếu về
thì cuộc sống sẽ rất khó khăn, nhưng tôi xác định trong lòng là trước
đây khó khăn nguy hiểm như thế mà còn chịu được thì lẽ nào bây giờ lại
không.
Phạm Hồng Sơn:
Khi “trằn trọc” để đi đến quyết định cuối cùng, hình ảnh hay tư tưởng
của lãnh tụ Hồ Chí Minh có vấn vương trong “trằn trọc” đó?
Huỳnh Nhật Tấn: Có. Chúng tôi lúc đó cũng thấy cần phải xem lại cả ông Hồ Chí Minh – lãnh tụ, người sáng lập ra ĐCSVN.
Phạm Hồng Sơn: Các ông thấy thế nào?
Huỳnh Nhật Hải:
Sau khi cùng tìm hiểu, trao đổi, bàn luận chúng tôi nhận thấy tình
trạng mất tự do, phi dân chủ hay có thể nói là cuộc sống kìm kẹp, đau
thương của nhân dân, của giới trí thức sau chiến thắng 30/04/1975 ở miền
Nam hoàn toàn là sự lặp lại y nguyên tình trạng ở miền Bắc sau chiến
thắng Điện Biên Phủ năm 1954 – thời kỳ mà ông Hồ Chí Minh vẫn hoàn toàn ở
trên đỉnh cao quyền lực.
Huỳnh Nhật Tấn:
Tôi đã từng tự hỏi là mục tiêu sâu xa của ông Hồ Chí Minh là gì? Với
những gì lịch sử đã diễn ra khi ông Hồ Chí Minh còn sống thì tôi thấy
mục tiêu của ông Hồ Chí Minh vì quyền lực là chính, còn mục tiêu độc lập
cho đất nước hay tự do, dân chủ cho dân tộc, cho xã hội Việt Nam đã bị
ông Hồ Chí Minh coi nhẹ. Hai mục tiêu tốt đẹp đó chỉ là những ngọn cờ để
ĐCSVN lôi kéo, tập hợp quần chúng và giới trí thức cho mục đích giành
quyền lực cho ĐCSVN. Thực tế chính quyền dưới thời ông Hồ Chí Minh đã
biểu hiện đi ngược lại hoàn toàn hai mục tiêu tốt đẹp đó, độc lập cho
dân tộc và tự do, dân chủ cho nhân dân.
Phạm Hồng Sơn: Vâng, về vấn đề tự do, dân chủ cho nhân dân thì đã rõ, nhưng còn về độc lập dân tộc, xin ông nói rõ thêm?
Huỳnh Nhật Tấn:
Có thể nói ông Hồ Chí Minh đã đưa đất nước thoát khỏi sự phụ thuộc, đô
hộ của người Pháp nhưng lại để đất nước trở lại sự phụ thuộc, khống chế
và thôn tính của Trung Quốc cộng sản. Nếu không có sự đồng ý, chủ kiến
ngoại giao của ông Hồ Chí Minh thì không thể có tình hữu nghị Việt-Trung
như “môi với răng” và cũng không thể có Công hàm 1958 của ông Phạm Văn
Đồng. Một cách ngắn gọn, có thể nói ông Hồ Chí Minh đã vô tình tạo điều
kiện thuận lợi cho sự xâm lăng, thôn tính của Trung Quốc cộng sản đối
với Việt Nam như chúng ta đang chứng kiến.
Phạm Hồng Sơn: Liệu có công bằng không khi tình trạng mất độc lập, mất chủ quyền hiện nay qui hết cho Hồ Chí Minh?
Huỳnh Nhật Tấn:
Đúng là tình trạng lâm nguy của đất nước hiện nay không thể qui hết cho
ông Hồ Chí Minh. Nhưng bất kỳ một lãnh tụ, một nhà sáng lập của một
đảng, một tổ chức chính trị nào cũng đều có ảnh hưởng rất căn bản tới
tầm nhìn, hành động của các thế hệ kế tiếp, dù xấu hay tốt. Tôi nhớ ngay
trong văn kiện, khẩu hiệu của ĐCSVN vẫn luôn khẳng định ông Hồ Chí Minh
là người sáng lập, tổ chức, lãnh đạo, rèn luyện “Đảng ta”, tức là ông
Hồ Chí Minh đã là kiến trúc sư cho mọi chính sách, đường lối của ĐCSVN
cũng như thể chế, cung cách quản lý xã hội của ĐCSVN.
Huỳnh Nhật Hải:
Đúng như thế, theo tôi, mặc dù ông Hồ Chí Minh đã mất rồi nhưng tư
tưởng, đường lối chính trị của ông ấy vẫn được tiếp tục kế thừa trong
ĐCSVN. Không phải ngẫu nhiên mà ĐCSVN hiện nay vẫn hô hào học tập tư
tưởng, đạo đức Hồ Chí Minh.
Phạm Hồng Sơn: Nhưng nhiều người cho rằng tư tưởng, đạo đức Hồ Chí Minh là rất tốt đẹp, đáng học theo?
Huỳnh Nhật Hải: Đúng,
rất tốt đẹp và đáng học nếu chỉ căn cứ vào lời nói và khẩu hiệu như ông
Hồ Chí Minh đã đề ra. Và đúng là ĐSCVN hiện nay cũng đang thực hiện
đúng như thế, các khẩu hiệu, lời nói, mục tiêu của họ hiện nay cũng rất
hoặc khá tốt đẹp, nhưng hành động và thực tế thì lại hoàn toàn ngược lại
– cũng như ông Hồ Chí Minh.
Huỳnh Nhật Tấn:
Nếu chỉ căn cứ vào truyền thống nhân ái của người Việt Nam thông thường
thôi thì cũng thấy đáng lý ra, với cương vị là người có quyền hành cao
nhất, ông Hồ Chí Minh phải ra lịnh không được giết hoặc hãm hại ân nhân
của mình như vụ xử bắn bà Nguyễn Thị Năm và nhiều người khác trong Cải
cách Ruộng đất. Hoặc những vụ bắt bớ, thanh trừng các đồng sự, các ân
nhân của ĐCSVN sau này mà không qua xét xử thì ông Hồ Chí Minh không thể
không biết là trái đạo lý. Nếu ông Hồ Chí Minh thực sự là người vì nước
vì dân thì sau khi lên nắm quyền, điều đầu tiên ông Hồ Chí Minh phải
làm là phải để nhân dân và giới trí thức có nhiều tự do hơn thời thực
dân Pháp chớ.
Phạm Hồng Sơn:
Nếu được sống lại thời tuổi trẻ một lần nữa, các ông có tiếp tục ủng hộ
và đi theo Việt Minh, Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam Việt Nam hay
ĐCSVN?
Huỳnh Nhật Hải: Không, không bao giờ.
Huỳnh Nhật Tấn:
Tôi sẽ phải bình tĩnh hơn, tìm hiểu xem họ có ủng hộ và có tư tưởng dân
chủ thực sự không, chứ không thể chỉ căn cứ vào lời nói và tuyên truyền
của họ. Theo tôi, vấn đề dân chủ phải được đặt cao hơn vấn đề dân tộc
vì chỉ có dân chủ mới giúp cho dân tộc được tự do đúng nghĩa và khi đó
đất nước mới có nền độc lập bền vững.
Phạm Hồng Sơn: Ngày 30/04/1975 các ông đang ở đâu và cảm xúc như thế nào?
Huỳnh Nhật Tấn: Lúc đó tôi đang ở Đà Lạt. Tôi đã trở về Đà Lạt từ ngày 03/04/1975 với tư thế của người chiến thắng.
Huỳnh Nhật Hải:
Tôi về Đà Lạt sau ông em tôi một ngày, ngày 04/04/1975. Cảm xúc của tôi
là sung sướng vô cùng, nhất là khi gặp lại má tôi – má đã tưởng tôi hy
sinh từ năm 1971 và đã đưa ảnh tôi lên bàn thờ.
Phạm Hồng Sơn: Dịp 30/04 hàng năm vẫn là một trong những ngày lễ lớn của cả đất nước, cảm xúc của các ông ra sao trong những ngày này?
Huỳnh Nhật Hải:
Buồn. Nếu không có cuộc chiến tranh tương tàn giữa hai miền trước 1975
thì dân tộc này không có cái bất hạnh, đau khổ như ngày hôm nay.
Huỳnh Nhật Tấn:
Buồn. Một ngày quá buồn. Cái chiến thắng 30/04 chỉ đem lại một sự áp
bức trên mọi phương diện cho nhân dân, đất nước và lại nặng nề hơn cả
thời Pháp thuộc.
Phạm Hồng Sơn:
Nếu bây giờ vô tình hai ông gặp lại một người là cựu viên chức cũ của
chế độ Việt Nam Cộng Hòa và người đó chính là “kẻ thù” của ông trước
1975, điều trước tiên hai ông muốn nói là gì?
Huỳnh Nhật Tấn:
Tôi có lỗi với dân tộc. Chính cái hăng hái, nhiệt huyết của tôi đã góp
phần dựng nên chế độ độc tài hiện nay, đã vô tình đem lại sự đau khổ
hiện nay. Và nếu xét về những căn bản để bảo đảm tự do cho nhân dân và
độc lập cho dân tộc thì tôi cũng đã vô tình góp công sức đưa những người
mang danh là “cách mạng” nhưng thực chất là vì quyền lực tới phá bỏ một
chế độ đã được xây dựng trên những căn bản về tự do, dân chủ và nhân
bản tại miền Nam Việt Nam.
Huỳnh Nhật Hải:
Bây giờ nhìn lại, con đường chúng tôi đã đi trước 1975 là một con đường
sai lầm. Sự nhiệt huyết lúc đó của chúng tôi đã đem lại bất hạnh hơn là
hạnh phúc cho dân tộc.
Phạm Hồng Sơn: Xin trân trọng cảm ơn ông Huỳnh Nhật Hải, Huỳnh Nhật Tấn.
THEO PRO CONTRA
Tháng 4 28, 2012
Phạm Hồng Sơn thực hiện
Tặng hai bác Huỳnh Nhật Tân và Huỳnh Nhật Hải bài thơ của nhà thơ Việt Phương
ReplyDeleteĐƯỜNG
Nếu thời gian sáu mươi nhăm năm qua quay trở lại
Ta chọn đúng con đường mê mải ta đã đi
Chỉ tước bớt những sai lầm non dại
Những tháng ngày thừa thãi khép hàng mi
Đừng thảm hại sống quỳ trong xoay xở
Rộng bao la đang mở những trang đời
Trời chỉ hẹp khi nhìn qua cửa sổ
Đảo cô đơn nghẹt thở giữa trùng khơi
Ta về với những con người chân đất
Tuần trăng non còn khuất bởi mưa dầm
Mát gió nồm mà cũng run gió bấc
Cay đắng ngọt ngào quăng quật tháng năm
Dáng đời đi dẫu sâu đằm lẫm liệt
Đôi bàn chân chỉ da thịt bình thường
Một niềm tin vượt gian nguy khắc nghiệt
Lòng dân nghèo bao hào hiệp tình thương
Sẽ đến thời khắp bốn phương tử tế
Cuối con đường có lẽ gặp con người
Đi hết mọi chân trời và mọi nhẽ
Mênh mang buồn vui thế bạn bè ơi
Việt Phương
Tặng hai bác Huỳnh Nhật Tân và Huỳnh Nhật Hải bài thơ của nhà thơ Việt Phương
ReplyDeleteĐƯỜNG
Nếu thời gian sáu mươi nhăm năm qua quay trở lại
Ta chọn đúng con đường mê mải ta đã đi
Chỉ tước bớt những sai lầm non dại
Những tháng ngày thừa thãi khép hàng mi
Đừng thảm hại sống quỳ trong xoay xở
Rộng bao la đang mở những trang đời
Trời chỉ hẹp khi nhìn qua cửa sổ
Đảo cô đơn nghẹt thở giữa trùng khơi
Ta về với những con người chân đất
Tuần trăng non còn khuất bởi mưa dầm
Mát gió nồm mà cũng run gió bấc
Cay đắng ngọt ngào quăng quật tháng năm
Dáng đời đi dẫu sâu đằm lẫm liệt
Đôi bàn chân chỉ da thịt bình thường
Một niềm tin vượt gian nguy khắc nghiệt
Lòng dân nghèo bao hào hiệp tình thương
Sẽ đến thời khắp bốn phương tử tế
Cuối con đường có lẽ gặp con người
Đi hết mọi chân trời và mọi nhẽ
Mênh mang buồn vui thế bạn bè ơi
Việt Phương
Tặng hai bác Huỳnh Nhật Tân và Huỳnh Nhật Hải bài thơ của nhà thơ Việt Phương
ReplyDeleteĐƯỜNG
Nếu thời gian sáu mươi nhăm năm qua quay trở lại
Ta chọn đúng con đường mê mải ta đã đi
Chỉ tước bớt những sai lầm non dại
Những tháng ngày thừa thãi khép hàng mi
Đừng thảm hại sống quỳ trong xoay xở
Rộng bao la đang mở những trang đời
Trời chỉ hẹp khi nhìn qua cửa sổ
Đảo cô đơn nghẹt thở giữa trùng khơi
Ta về với những con người chân đất
Tuần trăng non còn khuất bởi mưa dầm
Mát gió nồm mà cũng run gió bấc
Cay đắng ngọt ngào quăng quật tháng năm
Dáng đời đi dẫu sâu đằm lẫm liệt
Đôi bàn chân chỉ da thịt bình thường
Một niềm tin vượt gian nguy khắc nghiệt
Lòng dân nghèo bao hào hiệp tình thương
Sẽ đến thời khắp bốn phương tử tế
Cuối con đường có lẽ gặp con người
Đi hết mọi chân trời và mọi nhẽ
Mênh mang buồn vui thế bạn bè ơi
Việt Phương
Tặng hai bác Huỳnh Nhật Tân và Huỳnh Nhật Hải bài thơ có tên "Đường" của nhà thơ Việt Phương
ReplyDeleteĐƯỜNG
Nếu thời gian sáu mươi nhăm năm qua quay trở lại
Ta chọn đúng con đường mê mải ta đã đi
Chỉ tước bớt những sai lầm non dại
Những tháng ngày thừa thãi khép hàng mi
Đừng thảm hại sống quỳ trong xoay xở
Rộng bao la đang mở những trang đời
Trời chỉ hẹp khi nhìn qua cửa sổ
Đảo cô đơn nghẹt thở giữa trùng khơi
Ta về với những con người chân đất
Tuần trăng non còn khuất bởi mưa dầm
Mát gió nồm mà cũng run gió bấc
Cay đắng ngọt ngào quăng quật tháng năm
Dáng đời đi dẫu sâu đằm lẫm liệt
Đôi bàn chân chỉ da thịt bình thường
Một niềm tin vượt gian nguy khắc nghiệt
Lòng dân nghèo bao hào hiệp tình thương
Sẽ đến thời khắp bốn phương tử tế
Cuối con đường có lẽ gặp con người
Đi hết mọi chân trời và mọi nhẽ
Mênh mang buồn vui thế bạn bè ơi
Nếu được sống lại từ đầu cụ VP sẽ
Delete“Ta chọn đúng con đường mê mải ta đã đi
Chỉ tước bớt những sai lầm non dại”
Thưa cụ Việt Phương, vì “những sai lầm non dại” ấy mà ta đã trót chọn con đường ngược với tiến hóa, thì chỉ có cách đi theo chiều ngược lại mới đến được cái đích mong muốn, chứ lại “chọn đúng con đường mê mải ta đã đi” như cụ thì luẩn quẩn quá, chỉ sửa những sai lầm trên ngọn sao được?. Hầu hết những người cùng trang lứa với cụ đều trở thành những anh hát Cải lương. Chẳng qua là các cụ chưa thể đoạn tuyệt với 2 kẻ tội phạm của lịch sử là Mác và Hồ đó thôi. Các Cụ đáng yêu ở trái tim tử tế nhưng hướng dẫn cuộc đời thì phải do cái đầu trí tuệ và duy lý, thưa cụ.Các cụ thua xa 2 ông Hải và Tấn.
Quay đầu lại thấy bến bờ ! Thật tốt đẹp cho những ngày còn lại của anh em họ Huỳnh !
ReplyDeleteHối tiếc muộn màng...đời các ông kết thúc không có hậu thật là một bi kịck và đó cũng là bi kịck của nước VN !
ReplyDeletedan viết: "đời các ông (Hải và Tấn)kết thúc không có hậu"?
DeleteLạ thiệt, kết thúc bằng sự tỉnh ngộ, cùng với sự tỉnh ngộ của cả dân tộc là rất CÓ HẬU chứ sao nói KHÔNG CÓ HẬU? Cứ tiếp tục tư duy sai lầm cũ là "có hậu" ư? Hay cứ luẩn quẩn "Cải lương" mới là "có hậu"?